1. Luật số 24/2018/QH14 ngày 12/6/2018 - Luật An ninh mạng.
Luật An ninh mạng khi chính thức có hiệu lực vào ngày 01/01/2019 sẽ siết chặt hơn nữa các hoạt động trên môi trường mạng. Điều này cũng đòi hỏi mỗi cá nhân sử dụng Internet phải hiểu các quyền được phép và có trách nhiệm tuân thủ pháp luật nhằm xây dựng môi trường số an toàn, an ninh hơn.
Trước đây chưa có Luật An ninh mạng, các hành vi phạm pháp luật trên mạng thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát, xử phạt. Những thông tin xấu độc, cùng với những tin tức giả mạo, xâm phạm quyền riêng tư, ảnh hưởng tiêu cực đến thuần phong, mỹ tục,… lan truyền rộng rãi mà không có cơ chế xử phạt trong khi những hành vi tương tự xảy ra ngoài xã hội sẽ bị xử phạt hành chính, dân sự hoặc thậm chí là hình sự tùy từng hành vi. Đặc biệt nghiêm trọng là các thế lực chống phá thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, định hướng tiêu cực các thông tin. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, âm mưu này được triển khai dưới nhiều phương thức khác nhau, và không gian mạng trở thành môi trường lý tưởng cho các âm mưu đó. Không gian mạng trở thành môi trường lý tưởng để thực hiện các hành vi đó vì khó có thể xử lý. Luật An ninh mạng tạo ra khung pháp lý quản lý nhà nước trên Internet, đưa các hoạt động trên Internet vào chịu sự điều chỉnh của pháp luật quy chiếu vào các hành vi trong Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự. Mỗi cá nhân hoàn toàn có đầy đủ các quyền và lợi ích trên Internet miễn rằng không vi phạm quy định của luật. Nếu vi phạm sẽ chịu chế tài tương ứng.
Các hành vi bị cấm do Luật An ninh mạng quy định tại Điều 8 có thể kể đến như: Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; xuyên tạc lịch sử, xúc phạm tôn giáo, kỳ thị giới tính, phân biệt chủng tộc; mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy phá hoại thuần phong mỹ tục; thông tin tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ, gây hấn; thông tin bịa đặt sai sự thật; cấm kinh doanh đa cấp, đánh bạc qua mạng internet;… Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Luật không có bất cứ quy định nào thiết lập sự áp đặt cấm đoán hay cản trở công dân hoạt động trên không gian mạng nói chung hay mạng xã hội nói riêng cũng như hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Các quy định trên cũng được quy định là hành vi vi phạm pháp luật trong Bộ luật Hình sự.
Bên cạnh đó, lực lượng bảo vệ an ninh mạng gồm: Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; Lực lượng bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; Tổ chức, cá nhân được huy động tham gia bảo vệ an ninh mạng.
Ngoài những điều khoản trên, Luật An ninh mạng còn có một điểm đáng chú ý đó là yêu cầu các công ty quy định về bảo đảm an toàn thông tin trên không gian mạng tại Khoản 3 Điều 26, yêu cầu doanh nghiệp trong nước và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet, các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam. Đến nay, ngoài Việt Nam đã có hơn 18 quốc gia thành viên của WTO (trong đó có Hoa Kỳ, Canada, Úc, Đức, Pháp) quy định bắt buộc phải lưu trữ dữ liệu trong lãnh thổ quốc gia. Bên cạnh những tranh cãi do quy định này gây ra, không thể phủ nhận những điểm tích cực nhất định. Nếu gặp sự cố gián đoạn sẽ được xử lý nhanh hơn; cơ quan chức năng sẽ quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp này; khi có hành vi xâm phạm an ninh mạng, việc phối hợp xử lý thông tin và hành vi vi phạm sẽ hiệu quả và khả thi hơn. Chính phủ sẽ sớm ban hành Nghị định hướng dẫn vệc lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam mà không gây ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp khác, kể cả doanh nghiệp khởi nghiệp.
Luật An ninh mạng ra đời đã hệ thống hóa, tập trung và nâng thành luật các quy định về quản lý an ninh mạng trước đây được ban hành và nằm rải rác tại nhiều quy định khác nhau. Mặc dù còn nhiều ý kiến trái chiều xoay quanh nhưng không thể phủ nhận những giá trị mà Luật An ninh mạng mang lại nhất là về mặt quản lý nhà nước, đặc biệt an ninh mạng là vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
2. Luật số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016 - Luật Trẻ em
Luật Trẻ em được kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 5/4/2016 và có hiệu lực từ 01/6/2017. Luật Trẻ em năm 2016 đã kế thừa những quy định cơ bản của Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, đồng thời sửa đổi, bổ sung rất nhiều quy định mới nhằm cụ thể hóa Công ước Quyền trẻ em, Hiến pháp 2013 và phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội và phát triển của trẻ em trong giai đoạn hiện nay.
Luật Trẻ em gồm 07 chương với 106 điều, bao gồm: Chương I - Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 11); Chương II - Quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 12 đến Điều 41), Chương III - Chăm sóc và giáo dục trẻ em (từ Điều 42 đến Điều 46); Chương IV - Bảo vệ trẻ em (từ Điều 47 đến Điều 73); Chương V - Trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em (từ Điều 74 đến Điều 78); Chương VI - Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 79 đến Điều 102); Chương VII - Điều khoản thi hành (từ Điều 103 đến Điều 106).
Luật Trẻ em năm 2016 có những nội dung và điểm mới cơ bản như sau:
Về tên gọi:Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được đổi thành Luật Trẻ em; tên gọi mang tính chất khái quát, có phạm vi rộng, cho phép chứa đựng được đầy đủ hơn các nội dung hoạt động liên quan quyền trẻ em.
Chương I - Những quy định chung
- Về khái niệm trẻ em: Luật quy định “trẻ em là người dưới 16 tuổi”, quy định này có nghĩa mở rộng đối tượng áp dụng của Luật không chỉ trẻ em là công dân Việt Nam mà còn bao gồm cả trẻ em là người nước ngoài không phải công dân Việt Nam nhưng đang cư trú tại Việt Nam.
- Về Giải thích từ ngữ: Luật đưa ra 11 khái niệm liên quan đến các quy định trong Luật, đặc biệt là các khái niệm mới về bảo vệ trẻ em như: Chăm sóc thay thế; Người chăm sóc trẻ em; xâm hại trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực trẻ em; bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em; giám sát việc thực hiện quyền trẻ em.
- Về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt: Luật quy định 14 nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trong đó có bổ sung các nhóm mới như: trẻ em bị tổn hại nghiêm trọng về thể chất và tinh thần do bị bạo lực; trẻ em bị bóc lột; trẻ em bị mua bán; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo hoặc bệnh phải điều trị dài ngày thuộc hộ nghèo hoặc hộ cận nghèo; trẻ em di cư, trẻ em lánh nạn, tị nạn chưa xác định được cha mẹ hoặc không có người chăm sóc.
- Về nguyên tắc thực hiện quyền trẻ em: Luật quy định “Khi xây dựng chính sách, pháp luật tác động đến trẻ em, phải xem xét ý kiến của trẻ em và của các cơ quan, tổ chức có liên quan; bảo đảm lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu về trẻ em trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, ngành và địa phương”,
- Về những hành vi bị nghiêm cấm: Luật quy định cụ thể và bổ sung về các hành vi bị nghiêm cấm như tước đoạt quyền sống của trẻ em; cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình; công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em; không thực hiện trách nhiệm hỗ trợ trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm,…
- Về nguồn lực:Luật quy định rõ việc ưu tiên nguồn lực để thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em, bao gồm cả nguồn tài chính và nguồn nhân lực. Tháng hành động vì trẻ em vào tháng 6 hằng năm và Quỹ Bảo trợ Trẻ em cũng được quy định trong Luật để thúc đẩy phong trào toàn dân chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em và vận động nguồn lực cho trẻ em.
Chương II - Quyền và bổn phận của trẻ em (Điều 12 đến Điều 46). Luật quy định 25 nhóm quyền của trẻ em như quyền sống; quyền bí mật đời sống riêng tư; quyền được sống chung với cha, mẹ; quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi; quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục, không bị bóc lột sức lao động, không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc, không bị mua, bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạn; quyền được đảm bảo an sinh xã hội; quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội; quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn… Các bổn phận của trẻ em đối với gia đình, nhà trường, cộng đồng, đất nước và chính bản thân các em được quy định cụ thể trong Luật phù hợp với chế định về nghĩa vụ công dân của Hiến pháp năm 2013, Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng và phù hợp với yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng con người Việt Nam trong bối cảnh mới.
Chương III - Chăm sóc và giáo dục trẻ em: Luật quy định tổng quát về chính sách của nhà nước để bảo đảm về chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em; chăm sóc sức khỏe; giáo dục; bảo đảm điều kiện vui chơi, giải trí, hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch và thông tin, truyền thông cho trẻ em. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng, thực hiện các chính sách về quyền trẻ em trong thực tế.
Chương IV - Bảo vệ trẻ em (Điều 42 đến Điều 46). Nội dung các điều quy định về bảo vệ trẻ em trong Luật Trẻ em hầu như hoàn toàn mới so với Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Luật Trẻ em quy định cụ thể các nội dung về ba cấp độ bảo vệ trẻ em (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) và trách nhiệm thực hiện; cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; chăm sóc thay thế; các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Các biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp được quy định cụ thể, cùng với trách nhiệm thực hiện của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc bảo vệ trẻ em. Luật quy định các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em ở cả ba cấp độ, không chỉ dừng lại ở việc can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Tại Điều 53 quy định cụ thể trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã. Quy định về chăm sóc thay thế nhằm đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình và được chăm sóc thay thế khi bị mất môi trường gia đình hoặc không thể sống cùng cha đẻ, mẹ để vì sự an toàn và lợi ích tốt nhất của trẻ em. Tại mục 4 Chương IV quy định các biện pháp bảo vệ trẻ em trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Nội dung này được xây dựng trên cơ sở hệ thống hóa các nguyên tắc áp dụng đối với người chưa thành niên trong quá trình tố tụng và xử lý vi phạm hành chính được quy định tại các văn bản pháp luật hiện hành, đồng thời bổ sung các nguyên tắc được quy định tại Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các điều ước quốc tế về tư pháp đối với trẻ em mà Việt Nam là thành viên.
Chương V - Trẻ em tham gia váo các vấn đề về trẻ em (từ Điều 74 đến Điều 78).Nội dung này hoàn toàn mới so với các Luật trước đây. Các quy định nhằm để thể chế hóa quy định tại khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013 “trẻ em được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”. Chương này quy định nội dung, phạm vi, hình thức trẻ em tham gia vào các vấn đề về trẻ em và biện pháp bảo đảm trong gia đình, nhà trường, cơ sở giáo dục khác và trong cộng đồng. Điều mới đặc biệt của Luật Trẻ em 2016 là Điều 77 quy định về tổ chức đại diện tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em và giám sát việc thực hiện quyền trẻ em theo ý kiến, nguyện vọng của trẻ em là Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
Chương VI - Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em (từ Điều 79 đến Điều 102). Luật quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em, bao gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đặc biệt quy định trách nhiệm của gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục. Công tác trẻ em liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan, tổ chức, địa phương, do đó Luật quy định về tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, điều hòa các hoạt động nhằm đảm bảo tính hiệu quả trong quá trình thực hiện quyền trẻ em giữa các cơ quan ở Trung ương, các tổ chức, các địa phương. Điểm mới nổi bật của chương VI là mục 2: Quy định về trách nhiệm của gia đình, cá nhân và cơ sở giáo dục đối với thực hiện quyền trẻ em. Đặc biệt, điều 102 quy định về trách nhiệm của cha, mẹ đối với việc quản lý trẻ em và giáo dục để trẻ em thực hiện được quyền và bổn phận của mình
Trên đây là những nội dung và điểm mới đáng chú ý của Luật Trẻ em năm 2016. Để thực hiện tốt các quyền của trẻ em mà Luật quy định đề nghị các cấp, các ngành, toàn xã hội và gia đình hãy chung tay bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em để trẻ em được phát triển toàn diện.
3. Luật số 25/2004/QH11 ngày 15/6/2004 - Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Năm 2004, Quốc hội thông qua Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thay thế Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991 (sau đây gọi tắt là Luật năm 2004). Sau 10 năm thực hiện Luật năm 2004, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có nhiều đổi mới và đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thay đổi, xuất hiện vấn đề mới tác động đến trẻ em và việc thực hiện các quyền trẻ em. Luật năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát sinh cần sự điều chỉnh của pháp luật, cụ thể: Luật năm 2004 quy định 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ em, các quyền khác chưa được quy định hoặc quy định rải rác tại các luật khác, chưa thể hiện được tinh thần pháp luật về trẻ em của quốc gia cần “tuyên ngôn” đầy đủ các quyền trẻ em theo Công ước về quyền trẻ em; Thực hiện quyền trẻ em liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của nhiều bộ, ngành, tổ chức, địa phương nhưng chưa có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, tổ chức, địa phương; Các biện pháp giám sát, báo cáo việc thực hiện quyền trẻ em chưa được quy định cụ thể trong Luật năm 2004; Các biện pháp bảo vệ trẻ em ba cấp độ (phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp) chưa được quy định một cách rõ ràng; Các quyền tham gia của trẻ em, đặc biệt tham gia vào các quá trình ra quyết định của nhà nước, nhà trường, tổ chức xã hội, gia đình chưa được quy định cụ thể.
Việc ban hành Luật Trẻ em thay thế Luật năm 2004 là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật năm 2004, bảo đảm việc triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và tương thích hơn với Công ước về quyền trẻ em.
4. Luật số 40/2013/QH13 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy
Nguyên tắc phòng cháy và chữa cháy: Điều 4 của Luật quy định nguyên tắc phòng cháy và chữa cháy (PC&CC) như sau:
- Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt động PC&CC.
- Trong hoạt động PC&CC lấy phòng ngừa là chính; phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra.
- Phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các điều kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả.
- Mọi hoạt động PC&CC trước hết phải được thực hiện, giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ.
Trách nhiệm phòng cháy và chữa cháy:
Điều 5, Luật PC&CC quy định:
- PC&CC là trách nhiệm của mỗi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trên lãnh thổ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
- Công dân từ 18 tuổi trở lên, đủ sức khoẻ có trách nhiệm tham gia vào đội dân phòng, đội PC&CC cơ sở được lập ở nơi cư trú hoặc nơi làm việc khi có yêu cầu.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình là người chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động và thường xuyên kiểm tra PC&CC trong phạm vi trách nhiệm của mình.
- Lực lượng Cảnh sát PC&CC có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra hoạt động PC&CC của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và làm nhiệm vụ chữa cháy.
Các hành vi bị nghiêm cấm:
Điều 13 quy định các hành vi sau bị nghiêm cấm:
- Cố ý gây cháy, nổ làm tổn hại đến tính mạng, sức khoẻ con người; gây thiệt hại tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân; ảnh hưởng xấu đến môi trường, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
- Cản trở các hoạt động PC&CC; chống người thi hành nhiệm vụ PC&CC.
- Lợi dụng hoạt động PC&CC để xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ con người; xâm phạm tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân.
- Báo cháy giả.
- Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, bảo quản, sử dụng, mua bán trái phép chất nguy hiểm về cháy, nổ; vi phạm nghiêm trọng các quy định quản lý, sử dụng nguồn lửa, nguồn nhiệt và các tiêu chuẩn về PC&CC đã được Nhà nước quy định.
- Thi công những công trình có nguy hiểm về cháy, nổ mà chưa có thiết kế được duyệt về PC&CC; nghiệm thu và đưa vào sử dụng công trình có nguy hiểm về cháy, nổ khi chưa đủ điều kiện bảo đảm an toàn về PC&CC.
- Làm hư hỏng, tự ý thay đổi, di chuyển phương tiện, thiết bị PC&CC, biển báo, biển chỉ dẫn và lối thoát nạn.
- Các hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.
Biện pháp cơ bản trong phòng cháy:
Điều 14 quy định 2 biện pháp sau:
- Quản lý chặt chẽ và sử dụng an toàn các chất cháy, chất nổ, nguồn lửa, nguồn nhiệt, thiết bị và dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt, chất sinh lửa, sinh nhiệt; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy.
- Thường xuyên, định kỳ kiểm tra phát hiện các sơ hở, thiếu sót về phòng cháy và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Trách nhiệm chữa cháy và tham gia chữa cháy:
Điều 33 quy định:
- Người phát hiện thấy cháy phải bằng mọi cách báo cháy nhanh nhất và chữa cháy; cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân gần nơi cháy phải nhanh chóng thông tin và tham gia chữa cháy.
- Lực lượng PC&CC khi nhận được tin báo cháy trong địa bàn được phân công quản lý hoặc nhận được lệnh điều động phải lập tức đến chữa cháy; trường hợp nhận được thông tin báo cháy ngoài địa bàn được phân công quản lý thì phải báo ngay cho lực lượng PC&CC nơi xảy ra cháy, đồng thời phải báo cáo cấp trên của mình.
- Các cơ quan y tế, điện lực, cấp nước, môi trường đô thị, giao thông và các cơ quan hữu quan khác khi nhận được yêu cầu của người chỉ huy chữa cháy phải nhanh chóng điều động người và phương tiện đến nơi xảy ra cháy để phục vụ chữa cháy.
- Lực lượng công an, dân quân, tự vệ có trách nhiệm tổ chức giữ gìn trật tự, bảo vệ khu vực chữa cháy và tham gia chữa cháy.
5. Luật số 44/2013/QH13 - Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực từ ngày 01/06/2006 và thay thế Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ra đời, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, mua sắm, quản lý, sử dụng trang thiết bị, trụ sở làm việc, nhà công vụ của cơ quan, tổ chức... tạo hành lang pháp lý để nâng cao hiệu quả việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí gồm 11 chương, 86 điều với những nội dung cơ bản như sau:
Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:
Phạm vi điều chỉnh:trong quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước, tiền, tài sản Nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực Nhà nước và tài nguyên thiên nhiên; trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân.
Đối tượng áp dụng: các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngân sách Nhà nước, lao động trong khu vực Nhà nước; tài nguyên thiên nhiên và các công dân, tổ chức khác.
7 lĩnh vực cơ bản thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí:
1. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng kinh phí Ngân sách Nhà nước (Chương II) bao gồm: lập, thẩm định, phê duyệt dự toán, quyết toán kinh phí ngân sách Nhà nước; mua sắm, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại và phương tiện, thiết bị làm việc; quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước cho hoạt động của cơ quan, tổ chức; quản lý, sử dụng kinhphí chương trình, mục tiêu, chương trình quốc gia, kinh phí nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2. Trong đầu tư các dự án sử dụng ngân sách Nhà nước, tiền, tài sản Nhà nước (Chương III) bao gồm việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch và danh mục dự án đầu tư; lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư; khảo sát, thiết kế xây dựng công trình; lập, thẩm định, phê duyệt tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình; lựa chọn nhà thầu, tổ chức tư vấn giám sát thực hiện dự án đầu tư; thực hiện dự án đầu tư, thi công công trình; lựa chọn nhà thầu, tổ chức tư vấn giám sát việc thực hiện dự án đầu tư, thi công công trình; cấp, thanh toán, quyết toán vốn cho dự án; bố trí nguồn vốn thực hiện dự án; tổ chức lễ động thổ, lễ khởi công, lễ khánh thành công trình xây dựng.
3. Trong quản lý sử dụng trụ sở làm việc, nhà công vụ của cơ quan, tổ chức sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước và công trình phúc lợi công cộng (Chương IV) dựa trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành; theo đúng mục đích, đúng quy định của pháp luật, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả. Công trình phúc lợi công cộng phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích. Nếu việc quản lý, sử dụng gây lãng phí thì phải bồi thường và xử lý kỷ luật.
4. Trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên (Chương V) bao gồm các hoạt động: quy hoạch, quản lý, sử dụng đất; quy hoạch, quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác. Bên cạnh đó, Luật còn quy định Nhà nước có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tái chế, tái sử dụng tài nguyên và các nguồn năng lượng có thể tái tạo được.
5. Trong đào tạo, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực Nhà nước (Chương VI). Việc đào tạo nguồn lực lao động; tuyển dụng; bố trí sử dụng cán bộ công chức, viên chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, yêu cầu và khối lượng công việc. Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động phải chấp hành kỷ luật lao động có hiệu quả, không sử dụng vào việc riêng.
6. Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp (Chương VII). Đối với công ty Nhà nước, việc quản lý, sử dụng vốn và các quỹ; sử dụng đất, mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản đất; mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản cố định, vật tư và các tài sản khác; quản lý, sử dụng các khoản chi phí đều phải tiết kiệm.
7. Trong sản xuất và tiêu dùng của nhân dân (Chương VIII). Nhà nước khuyến khích toàn dân thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các lĩnh vực đầu tư xây dựng, phát triển sản xuất, kinh doanh; xây dựng nhà ở, mua sắm phương tiện, thiết bị dùng cho đời sống sinh hoạt và tiêu dùng hàng ngày và trong việc cưới, tang, lễ hội hoặc các hoạt động văn hóa khác.
Các nội dung khác
Ngoài ra Luật còn quy định trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc cụ thể hóa, xây dựng và hướng dẫn Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; quy định việc khiếu nại, tố cáo đối với những hành vi vi phạm pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có sáng kiến, thành tích trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, ngăn chặn hành vi gây lãng phí ngân sách, lao động, thời gian lao động Nhà nước và tài nguyên thiên nhiên; quy định việc bồi thường thiệt hại do hành vi lãng phí gây ra; các hình thức xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.