TÓM TẮT NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN PHÁP LUẬT THÁNG 3/2025
- Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 ngày 29 tháng 6 năm 2024.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 gồm 11 chương, 141 điều, sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025. Xin giới thiệu 14 nội dung mới trọng tâm của văn bản Luật quan trọng này.
Ngày 29/6/2024, Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025.
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 gồm 11 chương, 141 điều (tăng 2 chương và 16 điều so với Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành).
Công tác xây dựng Luật có ba mục tiêu cụ thể. Đó là: (i) Bảo đảm an sinh xã hội theo quy định của Hiến pháp; thể chế hóa quan điểm, đường lối, nội dung cải cách trong Nghị quyết số 28-NQ/TW và các văn kiện, nghị quyết có liên quan; (ii) Sửa đổi căn bản các vướng mắc, bất cập từ thực tiễn; (iii) Mở rộng, gia tăng quyền, lợi ích để thu hút người lao động tham gia BHXH.
Cụ thể, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có 14 điểm mới trọng tâm sau đây.
1. Bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội để hình thành hệ thống BHXH đa tầng
Trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 là loại hình BHXH do ngân sách nhà nước bảo đảm, được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển một phần từ quy định về trợ cấp xã hội hằng tháng đối với người cao tuổi không có lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng, trong đó giảm độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội xuống 75 tuổi (hiện hành là 80 tuổi).
Riêng đối với người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo thì từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
2. Bổ sung quy định nhằm gia tăng sự liên kết giữa tầng trợ cấp hưu trí xã hội và BHXH cơ bản
Bổ sung chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người lao động không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
Theo đó, công dân Việt Nam đủ tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ thời gian đóng để hưởng lương hưu (chưa đủ 15 năm đóng) và chưa tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội (chưa đủ 75 tuổi) nếu không hưởng BHXH một lần và không bảo lưu mà có yêu cầu thì được hưởng trợ cấp hằng tháng từ chính khoản đóng của mình. Trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách nhà nước đóng BHYT.
3. Mở rộng đối tượng được tham gia
Luật Bảo hiểm xã hộinăm 2024 quy định mở rộng đối tượng được tham gia và thụ hưởng đầy đủ các chế độ BHXH bằng việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh; Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố; Người lao động làm việc không trọn thời gian; Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương.
4. Bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Luật BHXH năm 2024 đã chính thức bổ sung quyền thụ hưởng chế độ ốm đau, thai sản đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thay vì chỉ hưởng hai chế độ là hưu trí và tử tuất như Luật hiện hành.
5. Bổ sung chế độ thai sản vào chính sách BHXH tự nguyện
Người tham gia BHXH tự nguyện đáp ứng đủ điều kiện theo quy định được hưởng trợ cấp thai sản với mức là 2 triệu đồng cho mỗi con mới sinh, do ngân sách nhà nước bảo đảm, người lao động không phải đóng thêm so với quy định hiện hành.
6. Đóng BHXH tối thiểu 15 năm sẽ được hưởng lương hưu
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 gia tăng cơ hội được hưởng lương hưu của người tham gia BHXH thông qua việc giảm điều kiện về số năm đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu từ 20 năm xuống 15 năm.
7. Khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung quy định nhằm gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần
Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung theo hướng gia tăng quyền lợi, tăng tính hấp dẫn, khuyến khích người lao động bảo lưu thời gian đóng để hưởng lương hưu thay vì nhận BHXH một lần. Người lao động đã chấm dứt tham gia BHXH mà có đề nghị thì hưởng BHXH một lần nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Đủ tuổi hưởng lương hưu mà chưa đủ 15 năm đóng BHXH;
b) Ra nước ngoài để định cư;
c) Người đang mắc một trong những bệnh ung thư, bại liệt, xơ gan mất bù, lao nặng, AIDS;
d) Người có mức suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; người khuyết tật đặc biệt nặng;
e) Người lao động có thời gian đóng BHXH trước ngày 1/7/2025, sau 12 tháng không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà cũng không tham gia BHXH tự nguyện và có thời gian đóng BHXH chưa đủ 20 năm.
Như vậy, đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 1/7/2025 trở đi thì sẽ giải quyết BHXH một lần trong các trường hợp a, b, c và d nêu trên.
Người lao động không hưởng BHXH một lần mà bảo lưu thời gian đóng để tiếp tục tham gia thì có cơ hội được thụ hưởng các quyền lợi cao hơn như: (i) Khi tiếp tục tham gia được hưởng các chế độ với mức hưởng cao hơn; (ii) Được hưởng lương hưu với điều kiện dễ dàng hơn; (iii) trong thời gian hưởng lương hưu được Quỹ BHXH đóng BHYT; (iv) Được hưởng trợ cấp hằng tháng khi không đủ điều kiện hưởng lương hưu và chưa đủ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội; (v) trong thời gian hưởng trợ cấp hằng tháng thì được ngân sách Nhà nước đóng BHYT.
8. Bảo đảm quyền tham gia và thụ hưởng BHXH với lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam
Luật BHXHBảo hiểm xã hội năm 2024 bảo đảm tốt hơn quyền tham gia và thụ hưởng BHXH đối với người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và người lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam thông qua việc bổ sung quy định trường hợp điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về thời gian tham gia BHXH của người lao động ở Việt Nam và ở nước ngoài được tính để xét điều kiện hưởng chế độ BHXH.
9. Nâng cao hiệu quả đầu tư Quỹ BHXH
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 có quy định về nâng cao hiệu quả đầu tư Quỹ BHXH, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ BHXH thông qua việc mở rộng danh mục và phương thức đầu tư Quỹ BHXH.
10. Bổ sung quy định về bảo hiểm hưu trí bổ sung
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 bổ sung một chương quy định về bảo hiểm hưu trí bổ sung, trong đó quy định về đối tượng, nguyên tắc, Quỹ Bảo hiểm hưu trí bổ sung và chính sách của nhà nước đối với bảo hiểm hưu trí bổ sung, tạo điều kiện cho người sử dụng lao động và người lao động có thêm sự lựa chọn tham gia đóng góp để được hưởng mức lương hưu cao hơn.
11. Quy định cụ thể về “mức tham chiếu” thay cho “mức lương cơ sở”
Luật quy định “mức tham chiếu” dùng để tính mức đóng, mức hưởng một số chế độ BHXH; khi chưa bãi bỏ mức lương cơ sở thì mức tham chiếu bằng mức lương cơ sở.
Mức tham chiếu được điều chỉnh trên cơ sở mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế, phù hợp với khả năng của ngân sách nhà nước và Quỹ BHXH.
12. Quy định rõ về quản lý thu, đóng BHXH
Tăng cường tính tuân thủ pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động bằng việc dành riêng 1 chương để quy định về quản lý thu, đóng BHXH; làm rõ nội hàm và việc xử lý hành vi chậm đóng và hành vi trốn đóng BHXH.
13. Quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia và thụ hưởng quyền lợi BHXH thông qua việc bổ sung quy định giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH; điều chỉnh, cắt giảm, đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục thực hiện BHXH.
14. Sửa đổi, bổ sung quy định của các chế độ BHXH phù hợp hơn với thực tiễn, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người lao động
Luật Bảo hiểm xã hội số 41/2024/QH15 đã kế thừa, phát triển những quy định hiện hành phù hợp đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn, sửa đổi các quy định chưa phù hợp, bảo đảm tính khả thi, dài hạn, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Luật Phòng, chống tham nhũng số 36/2018/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2018.
Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 được thông qua tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, gồm gồm 10 chương, 96 điều. Luật Phòng, chống tham nhũng quy định về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Luật Phòng, chống tham nhũng số 55/2005/QH11 được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 01/2007/QH12 và Luật số 27/2012/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 có nhiều điểm mới rất quan trọng để bảo đảm tính khả thi, chặt chẽ, hiệu quả trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng… Theo đó, Luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang khu vực tư; khắc phục hạn chế, bất cập được phát hiện qua tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng 2005, từ quy định về biện pháp phòng ngừa cho tới các quy định về phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng.
Trong phòng ngừa, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 có những sửa đổi về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn khác; định mức, tiêu chuẩn, chế độ; việc tặng quà, nhận quà tặng; việc thanh toán qua tài khoản; kiểm soát xung đột lợi ích (là việc kiểm soát một tình huống mà khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ có thể liên quan đến lợi ích của cán bộ, công chức, viên chức dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ đó không vô tư, không khách quan); kiểm soát thu nhập.
Trong đấu tranh chống tham nhũng, chủ thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cũng phải chịu trách nhiệm nếu không phát hiện ra sai phạm trong quá trình thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Bên cạnh quy định về trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, Luật cũng bổ sung quy định về giảm hoặc miễn trách nhiệm cho người đứng đầu đã áp dụng tốt biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Luật cũng quy định xử lý rất nghiêm với người kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình tài sản tăng thêm không trung thực. Cụ thể, nếu là người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND thì sẽ bị xóa tên khỏi danh sách ứng cử, danh sách bầu cử; người được dự kiến bổ nhiệm, đề bạt thì sẽ không được bổ nhiệm, đề bạt nữa; nếu là đối tượng khác thì sẽ bị xử lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức. Luật cũng bổ sung quy định khuyến khích người không đủ năng lực, uy tín, trình độ từ chức.
Bên cạnh đó, Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 cũng được sửa đổi, bổ sung theo hướng đồng bộ với hệ thống pháp luật và phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam ký kết, gia nhập, mới đây nhất là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà Quốc hội vừa phê chuẩn cũng có nội dung yêu cầu về phòng chống tham nhũng.
Về chế định kiểm soát thu nhập trong Luật Phòng, chống tham nhũng 2018: Vấn đề kiểm soát thu nhập được nhắc tới từ Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 với việc quy định về nghĩa vụ kê khai tài sản; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 phát triển chế định kê khai tài sản thành chế định minh bạch tài sản, thu nhập. Đến Luật Phòng, chống tham nhũng 2018 thì vấn đề được phát triển thêm một bước thành chế định kiểm soát tài sản, thu nhập, coi trọng việc kiểm soát tính xác thực trong việc kê khai tài sản, thu nhập.
Luật đã quy định hoàn thiện hơn hệ thống cơ quan thực hiện nhiệm vụ kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng tập trung, thu gọn đầu mối, bảo đảm tính chuyên nghiệp, độc lập trong kiểm soát tài sản thu nhập. Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập được bổ sung nhiều thẩm quyền hơn, trong đó có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm, như: các ngân hàng, tổ chức tín dụng, cơ quan thuế, công an, hải quan, những cơ quan tổ chức khác phải cung cấp thông tin có liên quan để phục vụ cho việc xác minh tài sản, thu nhập. Căn cứ xác minh, trình tự, thủ tục xác minh tài sản, thu nhập được quy định rõ ràng, mở rộng hơn. Hình thức kê khai, phương thức kê khai tài sản cũng có đổi mới để bảo đảm tính hiệu quả cao hơn. Có nhóm đối tượng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ hơn như nhóm giữ chức vụ từ giám đốc sở và tương đương trở lên sẽ buộc phải kê khai hằng năm. Những nhóm đối tượng tuy không giữ chức vụ cao nhưng công tác ở những vị trí dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng cũng sẽ phải kê khai, kiểm soát tài sản, thu nhập một cách ngặt nghèo hơn. Cùng với đó, công nghệ thông tin sẽ được phát huy tác dụng trong kiểm soát tài sản, thu nhập. Luật đã có quy định về việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập theo hướng chặt chẽ, cụ thể hơn.
- Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật phòng chống HIV số 71/2020/QH14 ngày 16 tháng 11 năm 2020.
- Về bố cục, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) (sau đây viết tắt là Luật năm 2020) được bố cục thành 02 điều, cụ thể như sau:
- Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật năm 2006. Theo đó, so với Luật năm 2006 thì Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung 15 điều và bãi bỏ 02 điều.
- Điều 2. Hiệu lực thi hành.
* Về nội dung, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) gồm một số nội dung cơ bản như sau:
1. Sửa đổi, bổ sung một số thuật ngữ
Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung một số thuật ngữ tại Điều 2 về giải thích từ ngữ, gồm: “Xét nghiệm HIV”,“Biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV”, “Người di biến động” và “Dự phòng trước phơi nhiễm với HIVbằng thuốc kháng HIV”, việc sửa đổi, bổ sung để bảo đảm cách hiểu thống nhất, chính xác, phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật. Theo đó:
“Xét nghiệm HIV ” là việc thực hiện các kỹ thuật chuyên môn nhằm xác định tình trạng nhiễm HIV trong mẫu máu, mẫu dịch sinh học của cơ thể người, bao gồm xét nghiệm sàng lọc HIV và xét nghiệm khẳng định HIV dương tính.
“Người di biến động” là người thường xuyên sống xa gia đình, thay đổi chỗ ở và nơi làm việc.
“Biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV” là giải pháp nhằm giảm tác động có hại của hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV đối với cá nhân và cộng đồng.
“Dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV” là việc sử dụng thuốc kháng HIV để phòng ngừa, giảm nguy cơ nhiễm HIV”.
2. Bổ sung nghĩa vụ của người nhiễm HIV phải thông báo tình trạng nhiễm HIV
Nhằm bảo đảm dự phòng lây nhiễm HIV cho vợ, chồng, người chuẩn bị kết hôn, người sống chung như vợ chồng của người nhiễm HIV, Luật năm 2020 sửa đổi điểm b, khoản 2, Điều 4 của Luật năm 2006 theo hướng quy định người nhiễm HIV phải có nghĩa vụ thông báo tình trạng nhiễm HIV của mình cho vợ, chồng, người dự định kết hôn, người sống như vợ, chồng với mình để phòng ngừa lây nhiễm HIV cho người đó. Đây là nội dung cần thiết để góp phần bảo vệ quyền được an toàn của mỗi cá nhân và giảm nguy cơ lây nhiễm HIV từ người nhiễm HIV qua quan hệ tình dục.
Sau khi sửa đổi, bổ sung điểm b,khoản 2, Điều 4 của Luật năm 2006, người nhiễm HIV có các nghĩa vụ sau đây: (1) Thực hiện các biện pháp phòng lây nhiễm HIV sang người khác; (2) Thông báo kịp thời kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ, chồng, người dự định kết hôn, người chung sống như vợ chồng với mình; (3) Thực hiện các quy định về điều trị khi tham gia điều trị bằng thuốc kháng HIV; (4) Các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Điều chỉnh, bổ sung một số đối tượng nguy cơ cao được ưu tiên các biện pháp tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS
Trước tình hình dịch HIV/AIDS thay đổi về địa bàn, nhóm đối tượng, Luật năm 2020 sửa đổi khoản 2, Điều 11 của Luật năm 2006 theo hướng mở rộng các đối tượng được ưu tiên triển khai tiếp cận thông tin giáo dục truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS nhằm bảo đảm cung cấp sớm các kiến thức về HIV/AIDS, lợi ích, kỹ năng, phương pháp dự phòng lây nhiễm HIV cho những người có nguy cơ cao lây nhiễm HIV, gồm: nhóm người quan hệ tình dục đồng giới nam (MSM), người chuyển đổi giới tính, người có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV và với các đối tượng nguy cơ cao, phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng.
Như vậy, sau khi sửa đổi, bổ sung khoản 2, Điều 11 của Luật năm 2006, các đối tượng được ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, gồm: (1) Người nhiễm HIV; (2) Người sử dụng ma túy; (3) Người bán dâm; (4) Người có quan hệ tình dục đồng giới; (5) Người chuyển đổi giới tính; (6) Vợ, chồng và thành viên khác của gia đình cùng sống chung với người nhiễm HIV; vợ, chồng của người sử dụng ma túy, người bán dâm, người có quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển đổi giới tính; (7) Người có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV; (8) Người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục; (9) Người di biến động; (10) Phụ nữ mang thai; (11) Phạm nhân, người bị tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng, học viên cơ sở cai nghiện ma túy; (12) Người dân tộc thiểu số; người sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, khu vực biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó thăn; (13) Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 30 tuổi.
4. Bổ sung trường hợp cơ quan thông tin đại chúng thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS được thu phí theo đặt hàng, giao nhiệm vụ
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Khoản 7, Điều 12của Luật năm 2006 quy định về trách nhiệm của cơ quan thông tin đại chúng trong việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, cụ thể như sau:“Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS không thu phí, trừ trường hợp thực hiện theo đặt hàng, giao nhiệm vụ có bố trí kinh phí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hợp đồng với chương trình, dự án về phòng, chống HIV/AIDS hoặc do tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tài trợ”.
Như vây, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng, trường hợp cơ quan thông tin đại chúng thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS theo đặt hàng, giao nhiệm vụ có bố trí kinh phí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được thu phí (Luật năm 2006 quy định không được thu phí). Quy định như vậy phù hợp với thực tiễn về tự chủ tài chính hiện nay và tránh quy định mang tính hình thức là miễn phí nhưng không khả thi.
5. Bổ sung nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác có trách nhiệm triển khai nhiệm vụ tổ chức quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm, chăm sóc, điều trị cho người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 18 của Luật năm 2006 theo hướngbổ sung nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác có trách nhiệm triển khai nhiệm vụ tổ chức quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm, chăm sóc, điều trị cho người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV, nhằm bảo đảm người nhiễm HIV được xét nghiệm sớm, chăm sóc và điều trị liên tục trong các cơ sở giam giữ và phòng chống lây nhiễm HIV trong các cơ sở này.
6. Điều chỉnh, mở rộng sự tham gia của người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được tham gia một số biện pháp phòng, chống HIV/AIDS
Nhằm phát huy vai trò của người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 20 của Luật năm 2006 như sau:
“Điều 20. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao tham gia phòng, chống HIV/AIDS
1. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao có quyền tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật phù hợp với khả năng, điều kiện của mình.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện và hỗ trợ cho người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao tham gia nhóm giáo dục đồng đẳng và các hình thức tổ chức sinh hoạt khác trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS theo quy định cửa pháp luật.
3. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Tuyên truyền và tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV theo quy định của Chính phủ;
b) Cung cấp dịch vụ tư vấn, xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét nghiệm HIV cho người có hành vi nguy cơ cao khi đáp ứng đủ điều kiện theo quy định Chính phủ;
c) Tư vấn và hỗ trợ cho người có hành vi nguy cơ cao tham gia điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV;
d) Hỗ trợ, chăm sóc người nhiễm HIV;
đ) Tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS;
e) Các hoạt động khác về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật”.
Theo đó, Luật năm 2020 đã mở rộng sự tham gia của người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được tham gia một số biện pháp phòng, chống HIV/AIDS như: cung cấp dịch vụ xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét nghiệm sàng lọc HIV cho người có nguy cơ cao tại cộng đồng theo quy định của pháp luật; giới thiệu, tư vấn sử dụng và tuân thủ điều trị, chuyển gửi người nguy cơ cao tham gia điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm HIV. Đây là những hoạt động, dịch vụ đơn giản, dễ thực hiện và phù hợp với điều kiện của người nhiễm HIV, người nguy cơ cao, tạo điều kiện để những người trong các nhóm đồng đẳng, nhất là người có mặc cảm dễ tiếp cận với các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.
7. Luật hóa các biện pháp can thiệp giảm tác hại và dự phòng lây nhiễm HIV bằng thuốc kháng HIV
Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi và đồng bộ với chính sách, pháp luật về phòng, chống ma túy, Luật năm 2020 đã sửa đổi Điều 21 Luật năm 2006 theo hướng luật hóa để quy định cụ thể các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lẫy nhiễm HIV hiện đang thực hiện theo quy định của Chính phủ, theo đó, các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bao gồm: (1) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng bao cao su; (2) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm sạch; (3) Dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV; (4) Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; (5) Các biện pháp can thiệp giảm tác hại phù hợp khác.
Đồng thời, quy định cụ thể các đối tượng được ưu tiên can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV để bảo đảm hiệu lực pháp lý và tính thống nhất, đồng bộ của pháp luật, gồm: (1) Người nhiễm HIV; (2) Người sử dụng ma túy; (3) Người bán dâm; (4) Người có quan hệ tình dục đồng giới; (5) Người chuyển đổi giới tính; (6) Vợ, chồng và thành viên khác của gia đình cùng sống chung với người nhiễm HIV; vợ, chồng của người sử dụng ma túy, người bán dâm, người có quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển đổi giới tính; (7) Người có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV; (8) Người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục; (9) Người di biến động; (10) Phạm nhân, người bị tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường giáo dưỡng, học viên cơ sở cai nghiện ma túy.
Ngoài ra, để Quốc hội xem xét quyết định trong dự thảo Luật Phòng, chống ma túy sửa đổi và Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi về tính đồng bộ thống nhất giữa các luật này với hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS trong việc đảm bảo quyền tiếp cận dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS liên tục, hiệu quả của người nghiện ma túy, Quốc hội đã bổ sung vào Luật Phòng, chống ma túy sửa đổi và Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi quy định về việc đảm bảo người đang tham gia điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế không bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp cai nghiện bắt buộc.
8. Giảm độ tuổi được quyền tự nguyện đề nghị xét nghiệm HIV
Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 27 của Luật năm 2006, theo đó, giảm độ tuổi được quyền tự nguyện đề nghị xét nghiệm HIV của trẻ em từ đủ 16 tuổi xuống đủ 15 tuổi mà không cần sự đồng ý của cha mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật để bảo đảm phù hợp với tình trạng thực tế lây nhiễm HIV trong nhóm trẻ hiện nay cần được xét nghiệm sớm để điều trị kịp thời nếu trẻ nhiễm HIV, bảo đảm quyền được chăm sóc sức khỏe của trẻ em, khắc phục được các tồn tại hiện nay. Trường hợp trẻ nhiễm HIV thì cơ sở xét nghiệm sẽ thông báo cho cha mẹ, người giám hộ biết để kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện chăm sóc và điều trị cho trẻ.
9. Sửa đổi, bổ sung quy định về xét nghiệm sàng lọc HlV, xét nghiệm khẳng định HIV dương tính
Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung Điều 29 của Luật năm 2006, quy định theo hướng phân tách cụ thể các kỹ thuật xét nghiệm tương ứng với phạm vi và điều kiện thực hiện từ đơn giản (xét nghiệm sàng lọc tại cộng đồng) đến phức tạp (khẳng định trường hợp HIV dương tính) để đáp ứng yêu cầu phát triển kỹ thuật hiện nay. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với điều kiện của cơ sở xét nghiệm HIV. Bổ sung quy định người được xét nghiệm HIV cung cấp chính xác địa chỉ nơi cư trú và số chứng minh thư nhân dân hoặc số thẻ căn cước công dân của mình cho cơ sở xét nghiệm trước khi thực hiện xét nghiệm để nhận kết quả xét nghiệm HIV dương tính.
10. Bổ sung đối tượng được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 30 của Luật năm 2006, theo đó bổ sung Khoản 2 quy định các đối tượng được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV để bảo đảm lợi ích của người nhiễm HIV trong việc điều trị, thanh toán chi phí khám, chữa bệnh cho họ cũng như phòng ngừa nguy cơ lây nhiễm HIV cho người trực tiếp chăm sóc, điều trị cho họ, gồm: (1) Người đứng đầu, điều dưỡng viên trưởng của khoa, phòng, đơn vị khác của cơ sở y tế có người nhiễm HIV được điều trị; nhân viên y tế được giao trách nhiệm trực tiếp điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV tại cơ sở y tế; (2) Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm xã hội trực tiếp thực hiện việc giám định, thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV; (3) Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ sở y tế khi trực tiếp thực hiện việc thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh cho người nhiễm HIV; (4) Người được người nhiễm HIV đồng ý cho phép tiếp cận thông tin của chính người nhiễm HIV.
Đồng thời quy định phạm vi và nội dung thông tin của người nhiễm HIV được tiếp cận để đảm bảo giữ bí mật thông tin của người nhiễm HIV, nhưng vẫn thực hiện các nhiệm vụ trong phạm vi được giao.
11. Sửa đổi, bổ sung quy định về chi trả xét nghiệm HIV miễn phí cho phụ nữ mang thai và cấp thuốc điều trị HIV/AIDS miễn phí
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 35 của Luật năm 2006, tiếp tục quy định phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí như quy định hiện hành; bổ sung quy định về nguồn kinh phí chi trả xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai là từ Quỹ bảo hiểm y tế đối với người có thẻ BHYT và từ ngân sách nhà nước cho người không có thẻ bảo hiểm y tế.
Sửa đổi, bổ sung Điều 39 của Luật năm 2006, theo đó, điều chỉnh đối tượng được cấp miễn phí thuốc kháng HIV, gồm: Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp hoặc do rủi ro của kỹ thuật y tế hoặc do tham gia cứu nạn, phụ nữ và trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, trẻ em dưới 6 tuổi, người nhiễm HIV trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác (các đối tượng trước đây được cấp miễn phí thuốc kháng HIV theo quy định của Luật năm 2006 là trẻ em từ đủ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi; người nhiễm HIV tích cực tham gia phòng, chống HIV, người nhiễm HIV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn). Các quy định này nhằm bảo đảm điều kiện thuận lợi về quyền tiếp cận dịch vụ can thiệp giảm tác hại, xét nghiệm HIV, chăm sóc điều trị HIV/AIDS của mọi người dân, đặc biệt phụ nữ mang thai, trẻ em, nhóm người yếu thế.
12.Sửa đổi, bổ sung quy định về điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV
Luật năm 2020 sửa đổi, bổ sung Điều 36 của Luật năm2006 quy định về điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV, như sau:
Người có nguy cơ phơi nhiễm với HIV, người phơi nhiễm với HIV được tư vấn, điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV. Ưu tiên tiếp cận tư vấn, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV cho đối tượng: (1) Người sử dụng ma túy; (2) Người bán dâm; (3) Người có quan hệ tình dục đồng giới; (4) Người chuyển đổi giới tính; (5) Vợ, chồng và thành viên khác của gia đình cùng sống chung với người nhiễm HIV; vợ, chồng của người sử dụng ma túy, người bán dâm, người có quan hệ tình dục đồng giới, người chuyển đổi giới tính; (6) Người có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV.
Người bị phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, rủi ro của kỹ thuật y tế được tư vấn, điều trị dự phòng lây nhiễm HIV và hưởng chế độ theo quy định của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).
13. Nguồn lực tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS
Luật năm 2020 sửa đổi Điều 43 Luật năm 2006 theo hướng quy định cụ thể hơn về nguồn lực và huy động các nguồn lực khác nhau cho phòng, chống HIV/AIDS bảo đảm thực hiện các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS nhằm mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS tại Việt Nam vào năm 2030, thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc cam kết nguồn lực hỗ trợ các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS đối với cộng đồng quốc tế. Theo đó, Luật quy định nguồn tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS gồm: ngân sách nhà nước; quỹ bảo hiểm y tế; chi trả của người sử dụng dịch vụ dự phòng, điều trị HIV/AIDS; nguồn tài trợ, viện trợ, đầu tư, tặng cho của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; các nguồn tài chính hợp pháp khác.
14.Bãi bỏ Điều 42 Luật năm 2006 về tạm đình chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt đối với người bị AIDS giai đoạn cuối
Luật năm 2020 bãi bỏ Điều 42 về tạm đình chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt đối với người bị AIDS giai đoạn cuối, do khi người nhiễm HIV chuyển sang giai đoạn AIDS, nếu được điều trị ARV sẽ khỏe mạnh bình thường. Việc bỏ điều khoản này cũng nhằm đảm bảo quyền được điều trị HIV/AIDS cho những người nhiễm HIV trong cơ sở giam giữ, không để cho họ bị tử vong do AIDS nếu không được điều trị. Mặt khác, hiện nay việc tạm đình chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt tù và các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đang được thực hiện theo các luật về hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành chính mới được ban hành.
15. Bãi bỏ Điều 44 Luật năm 2006 về Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV
Luật năm 2020 bãi bỏ Điều 44 về Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV. Việc bãi bỏ điều này không làm ảnh hưởng đến quyền được hỗ trợ, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS của người nhiễm HIV do việc điều trị HIV/AIDS đã được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả hoặc ngân sách nhà nước đảm bảo cho một số đối tượng quy định tại Điều 39 sửa đổi, bổ sung. Việc bãi bỏ Quỹ này phù hợp với chủ trương tại Nghị quyết số 792/2019/NQ-UBTVQH14 ngày 22/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
16. Về điều khoản thi hành Luật
Luật năm 2020 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021. Kể từ ngày Luật năm 2020 có hiệu lực thi hành, toàn bộ tài sản, tài chính của Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV được sử dụng để hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế đối với Quỹ ở trung ương và theo quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với Quỹ ở địa phương.
Việc sửa đổi, bổ sung Luật năm 2006 là yêu cầu cần thiết để bảo đảm thể chế hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống HIV/AIDS. Đây là hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, góp phần giảm số người nhiễm mới HIV xuống dưới 1.000 trường hợp, giảm số tử vong do AIDS đạt mức dưới 1 trường hợp/100.000 dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả phòng, chống HIV/AIDS nhằm chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã đề ra.