LUẬT BIỂN VIỆT NAM SỐ 18/2012/QH13 NGÀY 21 THÁNG 6 NĂM 2012.Luật Biển Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2013, là bộ luật đầy đủ quy định chế độ pháp lý của các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý của nước ta, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều, Ban Biên tập Bản tin Phụ nữ xin giới thiệu với bạn đọc những nội dung của Luật Biển Việt Nam, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Luật Biển tái khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hiến pháp năm 1980, 1992, trong Tuyên bố của Chính phủ về các vùng biển Việt Nam 1977, Tuyên bố về đường cơ sở Việt Nam năm 1982, trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS) năm 1994, trong Luật Biên giới quốc gia năm 2003.
Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Luật Biển Việt Nam là một trong những đạo luật cơ bản, là khung pháp lý đề cập đến những vấn đề lớn liên quan đến biển. Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục xây dựng các văn bản pháp luật liên quan quy định, hướng dẫn các nội dung cụ thể được đề cập trong luật, bao gồm cả việc xác định phạm vi, quy chế cụ thể đối với các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hai là, Luật Biển Việt Nam quy định về việc xác định đường cơ sở, phạm vi và chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam (nội thủy, lãnh hải) và các vùng biển thuộc chủ quyền của ta (vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa) (Điều 8 – Điều 18)
Về đường cơ sở, Luật Biển Việt Nam quy định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Hiện nay ta đã có đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến đảo Thổ Chu. Một số khu vực hiện chưa có đường cơ sở như Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì Chính phủ sẽ xác định và công bố sau khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Đồng thời, Luật Biển khẳng định Nhà nước ta thực hiện chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải Việt Nam. Lãnh hải của nước ta rộng 12 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển cũng thuộc chủ quyền của nước ta. Nhà nước ta thực hiện quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Vùng đặc quyền kinh tế của nước ta rộng 200 hải lý, kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Thềm lục địa của nước ta rộng 200 hải lý, kể từ đường cơ sở nói trên. Ở những khu vực rìa lục địa rộng hơn 200 hải lý, ta có quyền mở rộng thềm lục địa Việt Nam đến 350 hải lý theo các điều kiện và thủ tục Công ước Luật Biển năm 1982 quy định. Năm 2009, Nhà nước ta đã trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc hai Báo cáo quốc gia về thềm lục địa của Việt Nam ngoài 200 hải lý (một Báo cáo ta tự xây dựng và trình, còn một Báo cáo ta và Ma-lai-xia phối hợp).
Phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam quy định tàu thuyền nước ngoài được quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải nước ta. Tàu quân sự nước ngoài thông báo trước khi đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam. Luật Biển Việt Nam cũng quy định quyền tự do hàng hải trong vùng đặc quyền kinh tế và tự do hàng không trên vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.
Ba là, Luật Biển cũng làm rõ thêm về khái niệm đảo, đá, quần đảo phù hợp với các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) và bảo đảm quyền lợi biển của Việt Nam
Điều 20 Luật Biển Việt Nam quy định “1. Đảo thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. 2. Đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”. Quy định và áp dụng cho tất cả các đảo, trong đó bao gồm cả các đảo ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này, cũng tương tự như Điều 121 Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 quy định về chế độ pháp lý các đảo. Như vậy, đối với các bãi đá san hô ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không có điều kiện duy trì cuộc sống con người hoặc không có đời sống riêng mà chỉ có lãnh hải 12 hải lý, không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Bốn là, Luật Biển có cả một chương trình riêng về phát triển kinh tế biển (Chương IV), động viên mọi nguồn lực của nhà nước, công dân, các tổ chức trong và ngoài nước, trên cơ sở nguyên tắc phát triển kinh tế biển phải gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển. Nhà nước khuyến khích, ưu đãi, tạo điều kiện và bảo vệ các hoạt động phát triển kinh tế trên biển và trên đảo.
Các nguyên tắc phát triển kinh tế biển là phục vụ xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; gắn với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn trên biển; phù hợp với yêu cầu quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển; gắn với phát triển kinh tế- xã hội của các địa phương ven biển và hải đảo. Luật Biển Việt Nam quy định Nhà nước ưu tiên tập trung phát triển các ngành kinh tế biển: Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại tài nguyên, khoáng sản biển; vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác; du lịch biển và kinh tế đảo; khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; phát triển, nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học – công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế biển; xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Luật biển Việt Nam là một văn bản Luật mang tính tổng hợp, đề cập đến nhiều nội dung cơ bản liên quan đến biển. Mặc khác, phát triển kinh tế biển là một nội dung lớn với những yêu cầu, mục tiêu và biện pháp thực hiện đa dạng theo từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Do đó, Luật Biển Việt Nam chỉ quy định các nguyên tắc và định hướng lớn cho phát triển kinh tế biển. Các chính sách, biện pháp cụ thể nhằm thực hiện các định hướng đó sẽ được quy định trong các văn bản chuyên ngành, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế biển trong từng giai đoạn.
Năm là, về vấn đề tranh chấp biển, đảo với một số nước láng giềng: Việt Nam là một quốc gia nạn nhân của chiến tranh, hiểu rõ giá trị của hòa bình, yêu chuộng hòa bình, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Luật Biển thể hiện rõ chủ trương này trong điều 4: “Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế”.
Đây là chủ trương nhất quán của Nhà nước ta. Trên thực tế, Việt Nam đang kiên trì thực hiện chủ trương này và đến nay đã giải quyết được một số tranh chấp liên quan đến biển với các nước láng giềng. Cụ thể là năm 1997, Việt Nam ký Hiệp định phân định ranh giới trên biển với Thái Lan trong Vịnh Thái Lan; năm 2000 ký Hiệp định phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ; và năm 2003 cùng In –đô-nê-xia ký Hiệp định phân định thềm lục địa ở Nam Biển Đông.
Có thể thấy, Luật Biển đã đề cập một cách toàn diện nhất các hoạt động trên biển, đặt dưới sự thống nhất quản lý của Nhà nước. Điều này thể hiện rõ Việt Nam là một quốc gia ven biển, có trách nhiệm trong việc thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên các vùng biển của mình, phù hợp với luật quốc tế và lợi ích quốc gia, cam kết bảo vệ các hoạt động biển hợp pháp của các thể nhân, pháp nhân Việt Nam và nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam.
Việc Quốc hội thông qua Luật Biển Việt Nam là một bước tiến rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến biển, đảo của đất nước; lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản Luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo Việt Nam. Luật Biển Việt Nam khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình và tăng cường hợp tác quốc tế về biển với các nước và tổ chức quốc tế. Luật Biển Việt Nam đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc năm 1982, thể hiện quyết tâm của Việt Nam phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới./.
LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC SỐ 28/2023/QH15 NGÀY 27 THÁNG 11 NĂM 2023.Luật Tài nguyên nước số 28/2023/QH15 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2023.
Luật gồm 10 chương, 86 điều, quy định về quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật có hiệu lực thi hành từ 01/7/2024, với những điểm mới, trọng tâm như sau:
1. Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; Chính sách ưu đãi với dự án cấp nước cho vùng sâu, vùng xa
- Khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm:
Khoản 2 Điều 4 Luật Tài nguyên nước 2023 quy định, Nhà nước ưu tiên đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước, tích trữ nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước cấp cho sinh hoạt, sản xuất cho người dân ở các vùng khan hiếm nước ngọt, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện tiếp cận nước sinh hoạt cho người nghèo, phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các đối tượng dễ bị tổn thương khác.
Các tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án kể trên sẽ được hưởng ưu đãi, hỗ trợ hoặc miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo khoản 2 Điều 73 Luật Tài nguyên nước năm 2023.
- Chính sách ưu đãi với dự án cấp nước cho vùng sâu, vùng xa:
Khoản 4 Điều 4 Luật Tài nguyên nước năm 2023 nêu rõ, Nhà nước khuyến khích, ưu đãi, hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước; bảo vệ, phát triển nguồn nước, nguồn sinh thủy; tích trữ nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; điều hòa, phân phối tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra.
Tổ chức, cá nhân tham gia phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm sẽ được hưởng ưu đãi, hỗ trợ hoặc miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định tại khoản 4 Điều 34 và Điều 73 Luật Tài nguyên nước năm 2023.
2. Bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm:
Điều 8 Luật Tài nguyên nước năm 2023 đã bổ sung thêm các hành vi bị nghiêm cấm bao gồm:
- Lấn, lấp sông, suối, kênh, mương, rạch, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; đặt vật cản, chướng ngại vật, xây dựng công trình kiến trúc, trồng cây gây cản trở thoát lũ, lưu thông nước ở các sông, suối, hồ, kênh, mương, rạch nhưng không có biện pháp khắc phục.
- Khai thác trái phép bùn, đất và các loại khoáng sản khác trên sông, suối, kênh, rạch, hồ chứa, trong hành lang bảo vệ nguồn nước.
- Phá hoại các công trình điều tiết, trữ nước.
- Làm sai lệch thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước.
- Xây dựng hồ chứa, đập, công trình khai thác, sử dụng nước trái quy hoạch về tài nguyên nước, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch khác có liên quan.
3. Quy định về Phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra trong quy hoạch tỉnh:
Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định nội dung quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh gồm các nội dung: phân bổ nguồn nước; bảo vệ tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra. Luật Tài nguyên nước mới không còn quy định quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh mà thay vào đó là Phương án khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra trong quy hoạch tỉnh gồm các nội dung theo quy định của pháp luật về quy hoạch và các nội dung quy định tại Điều 20 Luật Tài nguyên nước năm 2023.
4. Quy định về việc bảo đảm duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, ngưỡng khai thác nước dưới đất:
- Quy định cụ thể các trường hợp phải xác định dòng chảy tối thiểu; nguyên tắc, căn cứ và trách nhiệm xác định, công bố dòng chảy tối thiểu tại Điều 24 Luật Tài nguyên nước năm 2023.
- Quy định cụ thể về ngưỡng khai thác nước dưới đất, yêu cầu của việc xác định ngưỡng khai thác nước dưới đất tại Điều 30 Luật Tài nguyên nước năm 2023.
5. Quy định về quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa:
Tại Điều 38 Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định quy trình vận hành hồ chứa, liên hồ chứa phải được xây dựng, ban hành hướng tới việc vận hành các hồ chứa theo thời gian thực nhằm bảo đảm an toàn cho công trình, hạ du, tối ưu hoá việc sử dụng nguồn nước cho các mục đích sử dụng và lợi ích về kinh tế - xã hội, môi trường do nguồn nước mang lại. Tổ chức, cá nhân quản lý, vận hành đập, hồ chứa có trách nhiệm nghiên cứu, đầu tư đồng bộ các giải pháp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm đáp ứng các điều kiện, yêu cầu vận hành hồ chứa, liên hồ chứa theo thời gian thực.
6. Chính sách sử dụng nước tuần hoàn:
- Khoản 1 Điều 58 Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định các giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tiết kiệm, hiệu quả để các tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước thực hiện (gồm 06 giải pháp).
- Điều 59 Luật Tài nguyên nước năm 2023 quy định Nhà nước khuyến khích các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khai thác, sử dụng nước và xả nước thải có giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước thải ngay trong giai đoạn xây dựng dự án. Đồng thời, tại Điều này quy định các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khai thác, sử dụng nước và xả nước thải tại các khu vực có nguồn nước mặt không còn khả năng chịu tải theo công bố của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước hoặc có phương án xử lý nước thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường về chất lượng nước mặt trước khi thải vào nguồn nước theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước; thu gom, sử dụng nước mưa; đầu tư thiết bị, công nghệ tiết kiệm nước sẽ được hưởng ưu đãi, hỗ trợ hoặc miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo khoản 3 Điều 73 Luật Tài nguyên nước 2023.
7. Hộ gia đình khoan giếng để lấy nước sinh hoạt phải kê khai:
Theo điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 44 Luật Tài nguyên nước năm 2012, hộ gia đình khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt thì không phải đăng ký, không phải xin phép, trường hợp khai thác nước dưới đất tại các vùng mà mực nước đã bị suy giảm quá mức thì phải đăng ký.
Tuy nhiên, đến Luật Tài nguyên nước năm 2023, hộ gia đình khai thác nước dưới đất để sử dụng cho mục đích sinh hoạt của mình thì phải thực hiện kê khai theo khoản 4 Điều 52 Luật mới. Việc kê khai khai thác nước dưới đất để sử dụng cho mục đích sinh hoạt của hộ gia đình thực hiện từ ngày 01/7/2026.
8. Rút ngắn thời hạn của giấy phép khai thác tài nguyên nước
Theo khoản 1 Điều 54 Luật Tài nguyên nước năm 2023, thời hạn sử dụng của một số loại giấy phép khai thác tài nguyên nước đã bị rút ngắn. Cụ thể như sau:
- Theo Luật mới, Giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt có thời hạn tối đa là 10 năm, tối thiểu là 05 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn 05 năm. Theo quy định tại Điều 21 Nghị định 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước năm 2012, Giấy phép khai thác nước mặt có thời hạn tối đa 15 năm, tối thiểu 05 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn tối thiểu 03 năm.
- Theo Luật mới, Giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất có thời hạn tối đa là 05 năm, tối thiểu là 03 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn 03 năm. Theo quy định tại Điều 21 Nghị định 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước năm 2012, Giấy phép khai thác nước dưới đất có thời hạn tối đa 10 năm, tối thiểu 03 năm và được xem xét gia hạn nhiều lần, mỗi lần gia hạn tối thiểu 02 năm, tối đa là 05 năm.
9. Các trường hợp không cần kê khai, đăng ký, có giấy phép khai thác nước:
Theo Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định 05 trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không phải đăng ký, không phải xin phép. Luật Tài nguyên nước năm 2023 đã bổ sung quy định 11 trường hợp không phải kê khai, đăng ký, không phải có giấy phép khai thác tài nguyên nước tại Khoản 3 Điều 52 Luật Tài nguyên nước năm 2023 bao gồm:
- Khai thác nước cho các hoạt động văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, phòng cháy, chữa cháy, phục vụ mục đích quốc phòng và an ninh, tưới cây và rửa đường phục vụ mục đích công cộng;
- Khai thác nước mặt quy mô nhỏ để sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản;
- Khai thác nước mặt quy mô nhỏ để sử dụng cho các mục đích ngoài mục đích quy định tại điểm a, điểm b khoản này và điểm đ khoản 5 Điều 54 Luật Tài nguyên nước;
- Khai thác nước cho sinh hoạt tại các khu vực trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn, sự cố ô nhiễm, dịch bệnh do cấp có thẩm quyền công bố theo quy định của pháp luật;
- Khai thác nước biển để sử dụng cho sản xuất muối;
- Khai thác nước biển phục vụ các hoạt động trên biển;
- Khai thác nước biển quy mô nhỏ để sử dụng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản trên đảo, đất liền;
- Sử dụng mặt nước sông, suối, kênh, mương, rạch, hồ chứa để nuôi trồng thủy sản, kinh doanh, dịch vụ quy mô nhỏ;
- Đào hồ, ao, kênh, mương, rạch quy mô nhỏ để tạo không gian thu, trữ nước, dẫn nước, tạo cảnh quan;
- Hoạt động sử dụng mặt nước trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi thực hiện theo quy định của pháp luật về thủy lợi;
- Các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ.
10. Bổ sung các quy định về ưu tiên đầu tư tích trữ nước:
Tại Điều 63 Luật Tài nguyên nước năm 2023, Nhà nước đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng công trình tích trữ nước, tìm kiếm nguồn nước để chủ động ứng phó với tình trạng hạn hán, thiếu nước; xây mới, cải tạo, phục hồi các hồ, ao và các công trình khác có chức năng cấp nước, điều hòa, phòng chống ngập úng nhân tạo; ưu tiên tận dụng các moong khai thác khoáng sản, đất, vật liệu xây dựng sau khi dừng khai thác và bảo đảm các quy định của pháp luật về môi trường, khoáng sản và các quy định khác của pháp luật có liên quan tạo thành hồ chứa để điều hòa, tích trữ nước, cấp nước, tạo cảnh quan; ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước, lũ, lụt.
11. Các trường hợp được miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác nước:
So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật mới đã bổ sung thêm các trường hợp tổ chức, cá nhân được miễn, giảm tiền cấp quyền khai thác nước tại Điều 69. Cụ thể như sau:
* Trường hợp khai thác tài nguyên nước không phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước bao gồm:
- Khai thác nước biển;
- Khai thác, sử dụng tài nguyên nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất công nghiệp, thủy điện, thủy lợi, thể thao, du lịch, kinh doanh, dịch vụ, tạo nguồn, ngăn mặn, chống ngập, tạo cảnh quan quy định tại các khoản 3, 4 và 5 Điều 52 của Luật Tài nguyên nước;
- Khai thác tài nguyên nước cho các mục đích tạo nguồn, ngăn mặn, chống ngập, tạo cảnh quan quy định tại khoản 1 Điều 52 của Luật Tài nguyên nước.
* Trường hợp miễn tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước bao gồm:
- Khai thác nước để cấp cho sinh hoạt của người dân khu vực biên giới, hải đảo, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
-Dự án có hạng mục công trình khai thác nước đã được Chính phủ Việt Nam bảo lãnh theo bảo lãnh Chính phủ;
- Trong thời gian công trình khai thác nước bị hư hỏng do sự cố bất khả kháng không thể tiếp tục khai thác hoặc phải tạm dừng khai thác.
* Trường hợp giảm tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước bao gồm:
- Công trình khai thác nước phải cắt, giảm lượng nước khai thác khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 42 của Luật Tài nguyên nước;
- Khai thác, sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước theo quy định tại khoản 5 Điều 59 của Luật Tài nguyên nước;
- Hồ chứa đã vận hành phải điều chỉnh, bổ sung dung tích phòng lũ cho hạ du so với nhiệm vụ của hồ chứa đã được phê duyệt;
- Khai thác nước cho sản xuất nông nghiệp trong thời gian xảy ra hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
12. Bổ sung quy định xã hội hóa đầu tư phát triển, tích trữ nước và phục hồi nguồn nước:
Theo quy định tại Điều 74 Luật Tài nguyên nước năm 2023, Nhà nước khuyến khích xã hội hoá các hoạt động sau đây:
- Phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm;
- Xây dựng các công trình phát triển, tích trữ nước.
Tổ chức, cá nhân đầu tư dự án có hoạt động quy định tại khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định của Luật này, pháp luật về đầu tư, pháp luật về đầu tư theo phương thức đối tác công tư và quy định khác của pháp luật có liên quan.